- Giấy bút!... Anh đường đường là một người đàn ông trưởng thành mà lại nghèo đến nỗi không có nổi tờ giấy với cây bút hay sao? Rõ là mất thể diện.
Nàng không tìm thấy gì, đứng dậy nhìn tôi lắc đầu vẻ nghịch ngợm, ý như muốn nói tôi hết thuốc chữa.
- Thua em luôn. Nhà có máy tính, anh cần giấy bút làm gì chứ?
Rồi nàng kéo tuột tôi ra đường, đi mua giấy bút, tiện quơ thêm cả đống đồ lặt vặt hàng ngày, rồi quay sang tôi: "Tính tiền đi!"
Tôi đành móc ví, vô tình bắt gặp hình ảnh Đạm Ngọc đang đứng chờ bên ngoài cổng siêu thị. Nàng mặc quần Jeans và một chiếc áo len màu tím, chân vẫn còn đi đôi dép lê to tướng ở nhà tôi, nhìn vừa thân thiết vừa hiền hậu. Nàng ngồi trên ghế đá, dáng vẻ bình tĩnh... Bức tranh dàn trãi trước mắt làm tôi rung động từ tận đáy lòng. Có giống đôi tân hôn cùng đi mua sắm cho gia đình mới không nhỉ?
Ai ngờ Đạm Ngọc mua giấy bút là để viết hợp đồng – hợp đồng ký kết quan hệ giữa hai chúng tôi. Hợp đồng viết rõ ràng, nếu bên A giúp bên B lấy được nhà tỉ phú, bên B hứa sẽ trong vòng hai năm trả đủ bên A ba triệu.
Khi bên A ký tên, Đạm Ngọc cười lăn lóc, bảo tôi sao mà căng thẳng hệt như đặt bút ký hợp đồng bán thân vậy. Tôi trợn mắt nhìn nàng, hùng hùng hổ hổ ký ngay một chữ rõ to.
Hợp đồng được lập làm hai bản. Khi cất bản hợp đồng vào đáy tủ, dường như tôi cũng chôn theo cả tấm lòng yêu yếu đuối của mình.
Trong quãng thời gian đó, câu tôi nói với nàng nhiều nhất là: "Hai chúng ta là đôi thực tế nhất thành phố Thượng Hải đấy!"
Đạm Ngọc gật đầu tán thành.
Mùa xuân đến.
Khi mùa xuân tràn đến, tôi thân ở Thượng Hải nhưng tuyệt nhiên không hề cảm thấy chút gì hương vị đất trời đang sống lại.
Buổi tối đầu tiên đưa Đạm Ngọc về khách sạn, nàng bỗng nhiên chìa tay đòi chìa khóa nhà tôi. Chẳng nghĩ gì nhiều, tôi móc chìa khóa trao cho nàng.
- Chìa khóa nhà anh trông lạ nhỉ, lỗ móc lại có hình hột đào. - Đạm Ngọc nói.
- Chứ sao. Anh là người lãng mạn mà.
Đạm Ngọc liếc nhìn tôi, mỉm cười.
Thượng Hải mùa đông thường có mưa phùn, ngày thứ hai mặt trời mới bắt đầu ló rạng, trăng thanh gió mát, dường như hương xuân cũng thấm đẫm cả trong những làn gió.
Buổi sáng gặp hai ứng cử viên, ngôn ngữ có cái vẻ không hợp chút nào với sở thích của Tào Lợi Hồng, tôi cho đi luôn.
Buổi chiều lại là một cô gái trông đạo mạo, nói nhất định không chọi bỏ việc sau khi két hôn – cũng không đạt yêu cầu.
Chiều tối, tôi mệt rã rời nhưng vẫn bị A Lam kéo đi bar uống rượu.
A Lam nhắc đi nhắc lại một câu: năm 2005 là năm đổi đời của cậu ta.
Tôi hỏi tại sao.
A Lam, uống nhiều tới mức cả mặt và cổ đều đỏ bừng bừng, lắc lư cái đầu giải thích: "Bởi vì em đổi đời rồi".
Thế là thế nào? Tôi cố kiên nhẫn hỏi thêm tại sao mà đổi đời.
"Bởi vì... à... ha ha... hê hê... bởi vì...". Và A Lam đổ ụp xuống. Đúng là xui xẻo. Mệt mỏi cả ngày rồi lại còn phải phí sức vác anh nhà thơ tửu lượng kém từ quán bar về tận nhà.
A Lam là cậu bạn duy nhất của tôi ở Thượng Hải, ngày trước học cùng trường đại học với tôi nhưng khác khoa. Tôi học đại học rồi học tiếp cao học, mất bảy năm, A Lam học cao đẳng rồi chuyển lên đại học thành ra cũng mất đến bảy năm.
Ở trường, A Lam và tôi thuộc dạng quen biết nhưng gặp nhau cũng chẳng buồn chào. Tôi quen cậu ta là vì cậu ta thường làm thơ, tôi vẫn nhớ có một bài tên là... Mười năm quay lại:
Tôi bước trên con đường trãi dài nắng óng
Vui mừng mà lòng vẫn tràn ngập hoang mang,
Hồi tưởng những ký ức xứng đáng nhớ nhung
Như những điều thuộc về cuộc tình ngày ấy...
Trong ý nghĩ ngây thơ ngày còn đi học ấy, tình yêu là một điều rất thiêng liêng và tốt đẹp. Thơ A Lam diễn tả được chính xác những mơ ước tình yêu của mọi người nên cũng gây dựng được chút tiếng tăm.
Tôi cũng chẳng rõ vì sao cái con người văn tài thanh cao hơn người ấy lại chịu quen với tôi nữa, lúc đó tôi là một kẻ mờ nhạt chẳng có gì đặc biệt.
Thời đó, chúng tôi đều rất sùng bái các nhà thơ, cứ nghĩ thi nhân cũng giống như đỉnh núi tuyết Himalaya vậy, có khí thế, có lý tưởng theo đuổi và vĩnh viễn không vấy bẩn bụi trần.
Thế nhưng sau này, khi tận mắt nhìn thấy tuyết trắng sạch trong trên cao nguyên khi tan chảy cũng hòa vào sông suối dơ bẩn mà trôi ra biển hết, nhà thơ cũng nhiễm dần những thói hư tật xấu và trở nên chẳng sạch sẽ gì hơn người thường.
Bốn năm trước, gặp nhau ở Thượng Hải, A Lam nói ở trong cái xã hội này mà làm văn sĩ thì sẽ sa đọa trước tiền bạc và quyền lực. Thế nên tôi hiểu ngay cái lẽ sống của anh chàng – bụi trần tục, A Lam có lẽ còn ngập sâu quá cả tôi.
Đã cùng là thân phận nghèo hèn giữa chốn thành thị xa hoa, tránh sao khỏi đôi lúc có cảm giác bực tức xót xa.